Tổng quan về Vương quốc Campuchia

Campuchia (tiếng Khmer: កម្ពុជា, Kampuchea, IPA: [kɑmpuˈciə], tên chính thức: Vương quốc Campuchia, tiếng Khmer: ព្រះរាជាណាចក្រកម្ពុជា), cũng còn gọi là Cao Miên hay Cam Bốt (theo tiếng Pháp: Cambodge, hay tiếng Anh: Cambodia), là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương ở vùng Đông Nam Á.

Campuchia giáp với vịnh Thái Lan ở phía tây nam, Thái Lan ở phía tây bắc, Lào ở phía đông bắc và Việt Nam ở phía đông. Năm 2019, Campuchia có 16 triệu người. Ngôn ngữ chính thức của Campuchia là tiếng Khmer, là ngôn ngữ thuộc nhóm Môn-Khmer trong hệ Nam Á.

1. Khái quát chung

– Tên nước: Vương quốc Campuchia (The Kingdom of Cambodia).
 – Quốc khánh: 09/11.
 – Diện tích: 181.035 km2.
 – Thủ đô:  Phnôm Pênh (Phnom Penh).
 – Các tỉnh, thành phố lớn: Phnôm Pênh, Bắt-đom-boong (Battambang), Kom-pông Chàm (Kompong Cham), Xi-ha-núc Vin (Sihanouk Ville), Xiêm Riệp (Seam Reap).
 – Vị trí địa lý: Campuchia nằm ở Tây Nam bán đảo Đông Dương, phía Tây và Tây Bắc giáp Thái Lan (2.100 km), phía Đông giáp Việt Nam (1.137km), phía Đông Bắc giáp Lào (492 km), phía Nam giáp biển (400 km). Sông ngòi: tập trung trong 3 lưu vực chính (Tônlê Thom, Tônlê Sap và Vịnh Thái Lan). Phân bố địa hình: đồng bằng chiếm 1/2 diện tích tập trung ở hướng Nam và Đông Nam, còn lại là núi, đồi bao quanh đất nước.

Khái quát chung về CampuchiaKhái quát chung về Campuchia

Dân tộc: Người Khmer (90%), gồm nhiều loại như Khmer giữa (tiếng Khmer là Khmer Kandal), Khmer Thượng (Khmer Loeur) và Khmer Hạ (Khmer Krom). Các dân tộc thiểu số: người Mã Lai, Chàm, Lào, Miến Điện, Việt Nam, Thái Lan, Hoa (10%).

– Ngôn ngữ: Tiếng Khmer (95%) là ngôn ngữ chính thức. Mọi công dân Campuchia được gọi là người mang “quốc tịch Khmer”. Đạo Phật (khoảng 90% dân số theo đạo Phật) được coi là Quốc đạo.

– Dân số: xấp xỉ 13,38 triệu người (nam 6,5 triệu, nữ 6,9 triệu) với tỉ lệ tăng dân số 1,54%/năm (2008).

– Thu nhập bình quân đầu người: 818 USD năm 2008 (số liệu của IMF)

2. Lịch sử phát triển

2.1. Lịch sử hình thành

Vương quốc Khmer ra đời vào cuối thế kỷ thứ 9 trên lãnh thổ của Phù Nam và Chân Lạp trước đây. Kinh đô lúc đó là Ăng-cô (Angkor). Từ cuối thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 13, Vương quốc Khmer phát triển cực thịnh. Từ thế kỷ 13 đến nửa đầu thế kỷ 19, các cuộc nội chiến và chinh phục của ngoại bang đã làm cho Vương quốc Khmer suy yếu.

Ăng-cô (Angkor) là kinh đô của Vương quốc Khmer (cuối thế kỷ thứ 9)Ăng-cô (Angkor) là kinh đô của Vương quốc Khmer (cuối thế kỷ thứ 9)

2.2. Tóm tắt một số giai đoạn lịch sử quan trọng

– Những năm 60 của thế kỷ 19 thực dân Pháp vào Đông Dương. Năm 1863, Pháp buộc Vua Nô-rô-đôm (Norodom) phải ký Hiệp ước đặt Campuchia dưới sự bảo hộ của Pháp và đến 1884 Campuchia hoàn toàn trở thành thuộc địa của Pháp.

 – Năm 1941, Nô-rô-đôm Xi-ha-núc (Norodom Sihanouk) sau khi lên ngôi lần thứ nhất đã vận động cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập cho Campuchia. Ngày 9/11/1953, Pháp tuyên bố trao trả độc lập cho Campuchia. Tháng 4/1955, Xi-ha-núc thoái vị nhường ngôi Vua cho cha là Nô-rô-đôm Xu-ra-ma-rit (Norodom Suramarith) để thành lập Cộng đồng xã hội bình dân. Trong tuyển cử 9/1955, Cộng đồng xã hội bình dân đã giành được thắng lợi lớn, Xi-ha-núc trở thành Thủ tướng. Năm 1960, Quốc vương Xu-ra-ma-rit qua đời, Xi-ha-núc được Quốc hội bầu làm Quốc trưởng.

 – Ngày 18/3/1970, Lôn Nôn – Xi-ríc Ma-tắc (Lon Nol – Siric Matak), được sự hậu thuẫn của Mỹ đảo chính Xi-ha-núc, thành lập “Cộng hoà Khmer” (10/1970). Xi-ha-núc và Hoàng tộc sang cư trú tại Trung Quốc và sau đó thành lập Mặt trận Đoàn kết dân tộc Campuchia (FUNK) và Chính phủ Đoàn kết dân tộc Vương quốc Campuchia (GRUNK) đặt trụ sở tại Bắc Kinh.

 – Ngày 17/4/1975, Pôn Pốt (Pol Pot) lật đổ chế độ Cộng hoà của Lôn Nôn, thành lập nước “Campuchia dân chủ”, thực hiện chế độ diệt chủng tàn khốc nhất trong lịch sử của Campuchia.

Chế độ Pôn Pốt là nỗi ám ảnh của người dân CampuchiaChế độ Pôn Pốt là nỗi ám ảnh của người dân Campuchia

 – Ngày 2/12/1978, Mặt trận giải phóng dân tộc Campuchia ra đời do ông Hêng Xom-rin (Heng Samrin) làm Chủ tịch. Ngày 07/1/1979, với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, nhân dân Campuchia đã đứng lên lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Iêng Xary (Pol Pot – Yeng Sari), thành lập nước “Cộng hoà Nhân dân Campuchia”, năm 1989 đổi thành “Nhà nước Campuchia” (SOC).

 – Ngày 23/10/1991, Hiệp định hoà bình Campuchia được ký kết giữa 19 nước và 4 phái Campuchia tại thủ đô Pa-ri (Pháp). Ngày 23-25/5/1993, Tổng tuyển cử lần thứ nhất ở Campuchia để bầu Quốc hội lập hiến do Cơ quan quyền lực lâm thời của Liên hợp quốc (UNTAC) tổ chức. Kết quả Đảng Bảo hoàng FUNCINPEC (FUN) giành 58 ghế, Đảng Nhân dân Campuchia (CPP): 51 ghế, Đảng Dân chủ Tự do Phật giáo (BLDP): 10 ghế và Molinaka: 1 ghế. Ngày 24/9/1993, Quốc hội lập hiến được thành lập và ban hành Hiến pháp mới, tên nước đổi thành Vương quốc Campuchia theo chế độ Quân chủ lập hiến, thực hiện chế độ đa đảng và nền kinh tế thị trường. Sau đó Chính phủ Liên hiệp CPP-FUN nhiệm kỳ I được thành lập. Nô-rô-đôm Xi-ha-núc lên ngôi Vua lần thứ hai.

 – Ngày 06/10/2004, Quốc vương Xi-ha-núc tuyên bố thoái vị; ngày 08/10/2004, Quốc hội Campuchia bỏ phiếu thông qua Luật về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Ngôi Vua; ngày 11/10/2004, Thượng viện Campuchia thông qua và quyền Quốc trưởng Chia Xim (Chea Sim) ký ban hành Luật này; ngày 14/10/2004, Hội đồng Ngôi Vua đã bầu Hoàng tử Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni (Norodom Sihamoni) làm Quốc vương mới. Ngày 29/10/2004, Quốc vương N. Xi-ha-mô-ni chính thức đăng quang.

 – Ngày 27/7/2008, tại Tổng tuyển cử lần thứ tư, Đảng CPP giành thắng lợi lớn với 90/123 ghế (tăng 17 ghế so với năm 2003), SRP: 26/123 (tăng 02 ghế), HRP: 03 ghế, FUN: 02 ghế, NRP: 02 ghế. Ngày 24/9/2008, Quốc hội mới đã được triệu tập và ngày 25/9/2008, Quốc hội đã bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ mới nhiệm kỳ 4 do CPP lãnh đạo (liên minh với FUNCINPEC); CPP nắm tất cả 26 bộ của Chính phủ mới.

3. Thể chế chính trị

3.1. Thể chế nhà nước

Theo Hiến pháp năm 1993 qui định Campuchia là quốc gia Quân chủ lập hiến. Hệ thống quyền lực được phân định rõ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp gồm: Vua, Hội đồng ngôi Vua, Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Hội đồng Hiến pháp và các cơ quan hành chính các cấp.

3.2. Hành pháp

Đứng đầu nhà nước: Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-mô-ni, lên ngôi ngày 29/10/2004. Nội các: Hội đồng Bộ trưởng do Quốc vương ký sắc lệnh bổ nhiệm. Hiện nay, đứng đầu Chính phủ gồm 01 Thủ tướng và 08 Phó Thủ tướng. Thủ tướng đương nhiệm là Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Xê-na Pạ-đây Tê-chô HUN XEN (Samdech Akka Moha Sena Padei Techo HUN SEN) (người của CPP).

3.3. Lập pháp

Lưỡng viện (ngày 08/3/1999 Campuchia sửa đổi Hiến pháp, lập thêm Thượng viện).

 – Quốc hội: Chủ tịch Quốc hội Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Pô-nhia Chạ-kơ-rây HÊNG XOM-RIN (Samdech Akka Moha Ponhea Chakrei HENG SAMRIN) (người của CPP); có 123 ghế, bầu đại biểu theo chế độ phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm. Campuchia đã tổ chức bầu cử Quốc hội 4 lần (1993, 1998, 2003, 2008).

 – Thượng viện: Chủ tịch: Xăm-đéc Ạ-kẹ Mô-ha Thôm-mẹ Pô-thị-xan CHIA XIM (Samdech Akka Moha Thamma Pothisal CHEA SIM) (người của CPP); nhiệm kỳ 5 năm; Thượng viện có 61 ghế, trong đó 02 ghế do Quốc vương bổ nhiệm, 02 ghế do Quốc hội chỉ định. Thượng viện nhiệm kỳ I thành lập tháng 3/1999 không qua bầu cử, các đảng có chân trong Quốc hội bổ nhiệm thành viên theo tỷ lệ số ghế có trong Quốc hội. Bầu cử Thượng viện nhiệm kỳ II diễn ra ngày 22/1/2007 thông qua bỏ phiếu kín và không trực tiếp (indirect), kết quả CPP giành 45/61 ghế, FUN: 10 ghế và SRP: 02 ghế.

 – Tư pháp: Hội đồng Thẩm phán tối cao (được Hiến pháp quy định, thành lập 12/1997); Toà án Tối cao và các Toà án địa phương.

 – Các đảng chính trị: Hiện nay, ở Campuchia có 57 đảng chính trị, trong đó có các Đảng lớn là: Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), Đảng Xam Rên-xy (SRP) của Xam Rên-xy, Đảng Mặt trận đoàn kết dân tộc vì một nước Campuchia độc lập, trung lập, hoà bình và thống nhất (FUNCINPEC), Đảng Nô-rô-đôm Ra-na-rit (NRP) của Hoàng thân Nô-rô-đôm Ra-na-rit tách ra từ Đảng FUNCINPEC. Đảng FUNCINPEC hiện nay do Nhiếc Bun Chay (Nhiek Bun Chhay) đứng đầu. Hiện nay, SRP của Xam Rên-xy và Đảng Nhân quyền (HRP) của Kim Xô-kha (Kim Sokha) là hai đảng đối lập chính.

 – Bầu cử cấp phường xã: Campuchia đã tổ chức hai lần bầu cử xã phường (tháng 4/2002 và tháng 4/2007). Kết quả cuộc bầu cử xã phường lần hai: Đảng CPP giành được 1.592/1.621 xã phường, đảng SRP giành 27/1.621 xã/phường, đảng NRP được 2 xã/phường. Đảng FUNCINPEC không giành được xã/phường nào.

– Campuchia đã tổ chức cuộc bầu cử Hội đồng thủ đô/tỉnh/thành và quận/huyện lần đầu tiên vào ngày 17/5/2009. Kết quả đảng CPP đã giành thắng lợi trong cả 2 cấp thủ đô/tỉnh/thành  và quận/huyện.

4. Kinh tế

Campuchia là nước nông nghiệp (70% dân số làm nghề nông) sống phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, có nhiều tài nguyên quý hiếm như đá quý, hồng ngọc, vàng, gỗ… Angkor Wat được xếp hạng là một trong số các kì quan nổi tiếng của thế giới. 

Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế trụ cột của CampuchiaNông nghiệp là một trong những ngành kinh tế trụ cột của Campuchia

Nông nghiệp, dệt may, du lịch và xây dựng vẫn là những trụ cột chính hiện nay của nền kinh tế Campuchia. Kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính ngân hàng của Campuchia ổn định, tiếp tục giữ được mức tăng trưởng cao trên dưới 10% năm.

Lượng dự trữ ngoại tệ năm 2008 của Campuchia tăng mạnh, đạt đến 2,2 tỉ USD. Cơ sở hạ tầng tại Campuchia được cải thiện nhanh chóng. Năm 2008, nông nghiệp của Campuchia đạt 2,65 tấn/ha (năm 2005 đạt 2,5 tấn) chứng tỏ ngành này còn nhiều tiềm năng phát triển và có sức hấp dẫn lớn.

Campuchia là quốc gia còn nhiều tiềm năng có thể duy trì sức cạnh tranh như tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực trẻ, nhân công giá rẻ. Việc các đối tác phát triển tiếp tục tăng ODA năm 2009 cho Campuchia (trên 950 triệu USD) trong khi khủng hoảng tài chính đang trầm trọng chứng tỏ sự tin tưởng của họ đối với Campuchia đang được củng cố. 

Thị trường xuất khẩu chính của Campuchia là Mỹ, EU, Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam (hiện Việt Nam là bạn hàng lớn thứ 4 của Campuchia). 

Do khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới, kinh tế Campuchia năm 2008 cũng bị ảnh hưởng: Lạm phát lên tới trên 20%, GDP năm 2008 chỉ tăng 6,7%. Năm 2009, kinh tế Campuchia có thể khó khăn hơn và có thể chỉ tăng trưởng hơn 4%.

5. Chính sách đối ngoại

Theo quy định của Hiến pháp, Campuchia thực hiện chính sách trung lập, không liên kết vĩnh viễn, không xâm lược hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Chính sách phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, khách du lịch, tích cực hội nhập quốc tế và khu vực đã đạt nhiều thành tựu.

Campuchia là thành viên thứ 10 của ASEAN (tháng 4/1999), thành viên chính thức thứ 148 của WTO (tháng 9/2003), gia nhập ASEM tại Hội nghị cấp cao ASEM 5 (tháng 10/2004) tại Hà Nội; và đang tích cực vận động để tham gia APEC trong thời gian sớm nhất.

Campuchia cũng là thành viên tích cực trong hợp tác khu vực như: Uỷ hội Mê Công quốc tế (MRC); Khu vực Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Campuchia (CLV); Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS); Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawadi-Chao Praya-Mekong (ACMECS); Hành lang kinh tế Đông Tây (WEC)…